Khi suy thận diễn ra cấp tính, nếu được phát hiện và điều trị kịp thời, chức năng thận có thể hồi phục và người bệnh có thể hoàn toàn khỏe mạnh, trở về với cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, nếu bệnh diễn tiến mạn tính thì chức năng thận sẽ không thể hồi phục.
>> Giám định adn hành chính: https://phantichadn.com/giam-dinh-adn-hanh-chinh
Theo ThS BS. Huỳnh Ngọc Phương Thảo – Trưởng khoa Nội thận – Thận nhân tạo Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM: Nguyên nhân gây bệnh suy thận mạn là do viêm cầu thận, đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh thận tắc nghẽn, di truyền...
Đặc biệt, tình trạng nhiễm độc do thuốc, thói quen tùy tiện dùng thuốc không có sự hướng dẫn của bác sĩ, dùng thuốc giảm đau kéo dài,…cũng là nguyên nhân gây suy thận vì hầu hết thuốc được thải trừ qua thận.
Trong giai đoạn sớm của bệnh, các dấu hiệu lâm sàng thường mơ hồ, không rõ rệt, chỉ được phát hiện qua xét nghiệm máu, nước tiểu và siêu âm. Đến giai đoạn muộn, người bệnh thường có các biểu hiện như nôn, buồn nôn, chán ăn, mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ, giảm lượng nước tiểu, đau cơ, chuột rút, phù chân, phù mắt cá chân, ngứa, tràn dịch màng bụng, tràn dịch màng phổi…
Theo thống kê, tại Việt Nam có khoảng hơn 10 triệu người bệnh thận mạn, trong đó, khoảng 26.000 người suy thận mạn tính giai đoạn cuối và mỗi năm có gần 8.000 ca bệnh mắc mới.
TS BS. Nguyễn Hoàng Đức – Trưởng khoa Tiết niệu BV ĐHYD đang thăm khám cho người bệnh suy thận
ThS BS. Huỳnh Ngọc Phương Thảo cho biết thêm: “Tại khoa Nội thận – Thận nhân tạo, mỗi năm có khoảng 30.000 lượt người bệnh đến khám và điều trị bệnh thận. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng báo động trên thường do tâm lý chủ quan, lơ là với những biểu hiện ban đầu, dẫn đến bệnh tình trở nặng và đa số người bệnh đều nhập viện trong tình trạng muộn. Suy thận mạn không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe, tinh thần của người bệnh mà còn để lại những biến chứng nguy hiểm. Người bệnh bị giữ nước, dẫn đến phù, huyết áp cao hoặc phù phổi. Nồng độ kali trong máu tăng đột ngột có thể làm giảm chức năng tim và có thể đe dọa tính mạng.
Bên cạnh đó, bệnh còn dẫn đến biến chứng tại nhiều cơ quan trong cơ thể như loét đường tiêu hóa do urê máu cao, chảy máu đường tiêu hóa hệ tiêu hóa; hệ thần kinh gây co giật, hôn mê, xuất huyết não do tăng huyết áp, nhồi máu não do vữa xơ động mạch; hệ sinh dục gây rối loạn kinh nguyệt, giảm hưng phấn tình dục, vô sinh, cường chức năng tuyến cận giáp thứ phát; hệ tim mạch làm tăng huyết áp, bệnh mạch vành, suy tim…”
TS BS. Nguyễn Hoàng Đức – Trưởng khoa Tiết niệu BV ĐHYD chia sẻ: “Suy thận được chia làm 5 giai đoạn. Ở các giai đoạn từ 1, 2, 3, 4, nếu được phát hiện sớm và tuân thủ điều trị , người bệnh có thể kéo dài thời gian bảo tồn trong 5 - 10 năm, trì hoãn giai đoạn lọc máu định kỳ. Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn 5 thì phải ghép thận hoặc lọc máu định kỳ. Nếu không, suy thận mạn giai đoạn cuối có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
Các biện pháp điều trị thay thế thận hiện nay bao gồm chạy thận nhân tạo, lọc màng bụng liên tục ngoại trú và ghép thận, ngày càng có nhiều tiến bộ không những giúp duy trì cuộc sống mà còn cải thiện chất lượng cuộc sống gần với người bình thường. Những người bệnh suy thận mạn giai đoạn cuối, tuổi < 65, không mắc các bệnh ung thư hoặc viêm nhiễm mạn tính chưa kiểm soát được (lao, viêm gan…) nếu tìm được một quả thận phù hợp mô học với cơ thể của mình, đều có thể được ghép thận”.
Để phòng tránh bệnh suy thận mạn một cách hiệu quả, người dân cần nâng cao ý thức bảo vệ sức khỏe, thường xuyên khám sức khỏe định kỳ. Nếu phát hiện mắc bệnh, người bệnh cần tuân thủ chỉ định của bác sĩ chuyên khoa, không nên tự ý điều trị. Song song đó, cần kiểm soát chế độ ăn uống hằng ngày, hạn chế ăn mặn, duy trì thể dục thể thao, kiểm soát tốt bệnh tăng huyết áp và đái tháo đường.
Nhận xét
Đăng nhận xét